“Trong vòng một tháng nữa Thầy sẽ ra đi, Thầy đã chuẩn bị sẵn hết rồi. Các con dù sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng phải nhớ đi bằng đôi chân và nhìn bằng đôi mắt của chính mình. Khi Thầy đi rồi, có buồn thì buồn ít thôi. Sách của Thầy để lại nhiều lắm, hãy siêng đọc sách, học hỏi và nghiên cứu mà tu tập. Mỗi lần đọc sách, nghiên cứu…, in như Thầy đang hiện hữu vậy đó. Đọc sách và tu tập cho mình, tức là giúp cho mọi người”.
Lúc tôi quen biết hai vị thì hai vị hãy còn là những chú tiểu ở chùa; bây giờ thì hai vị đã trở thành hai vị Thiền sư lỗi lạc và lại cũng là Anh Hùng Dân Tộc của Lịch Sử Việt nam hiện đại. Tại sao “gọi là Anh Hùng Dân Tộc” thì rất dễ nhận thấy (mà cụ thể nhất là cái án tử hình về tội “phản cách mạng và bạo động vũ khí lật đổ chế độ”, vân vân).
Thiền Sư đi trước một tay đỡ Thiền sàng như gánh vác một ân huệ muôn trùng của tình bạn. Khi sống thì có nhau, giờ một người xả bỏ báo thân nhưng trong ý nghĩa tận cùng siêu nhiên thì luôn vẫn có nhau. Có nhau như đôi bạn chân tình. Như đôi bạn tâm giao. Có nhau như Đạo Sư Thiền Sư muôn thuở. Một bàn tay Thiền Sư đở Thiền sàng nâng cao, muốn nói Đạo Sư hãy lên đường thanh thản, an bình trên đạo lộ giải thoát, còn một tay để nơi ngực, Thiền Sư sẽ tiếp tục những gì Đạo Sư còn để lại, một kho tàng văn hoá quý giá. Một nền văn học kỳ vĩ của Phật Giáo Việt Nam.
Tin Tuệ Sỹ mất, tôi không buồn. Như thuở làm sinh viên Sài Gòn 1977-78, người tôi muốn tìm gặp không là Chế Lan Viên, không phải Bùi Giáng hay Trịnh Công Sơn, mà Tuệ Sỹ – duy nhất. Không gặp được ông, tôi không buồn. Nghe tin ông bị kết ản tử hình, tôi cũng không buồn.
Tại sao? Bởi tôi biết ông không thể chết, nói khác đi: Tinh thần Quý tộc Đông phương nơi ông không thể bị giết chết.