Giữa thời đại và nhân sinh

I.

Lý Bạch tiên tài, Lý Hạ quỷ tài; ngụ ý của sự phân biệt này còn quá mơ hồ. Sự thờ ơ của các nhà văn học sử Trung Quốc mới là chỗ xác thiết cho thấy địa vị của hai người. Mặc dù Tiên hay Quỷ cũng đều là những gì chỉ có trong thế giới siêu thực, xa xôi, ở bên ngoài cuộc đời; nhưng sự sống khốn quẫn và quá vắn của Hạ dễ khiến cho thi ca ấy bị chỉ trích là ‘bất cận nhân tình’, không có gì quá đáng. Sở từ cũng đầy dẫy những hình ảnh quái dị, và những tâm tình bi phẫn âm u; tuy vậy, trên một phương diện, nơi đó người ta dễ dàng tìm thấy những gì đáng gọi là chân tình tha thiết đối với khổ lụy nhân sinh. Lịch lãm về đời sống của Hạ quá ít; vả lại, Hạ cũng chưa từng mang một  trọng trách nào có ý nghĩa trong nghĩa vụ của một nhà thơ đối với cuộc đời, cho nên những lời hoa lệ bóng bẩy và những ngụ ý xa xôi dễ bị liệt vào loại văn chương ‘duy mỹ’. Nếu Hạ thành công một phần nhỏ trong ước mơ trẻ trung của mình, hay ít nhất đã từng mang trách vụ triều đình như Hàn Dũ, hoặc đã từng dâng một tấu chương gián nghị theo biểu thức nào đó cho nhà vua, có lẽ thơ Hạ đã được nhìn bằng con mắt khác hẳn từ trước đến nay.

Lý Bạch và Lý Hạ không cùng cảnh ngộ sinh nhai; mà tư chất thiên phú của họ quá khác biệt. Do đó không thể phân biệt tài năng và khuynh hướng của cả hai trên cùng một tiêu chuẩn. Mặc dù không có nhiều lịch lãm bằng, nhưng tài năng của Hạ nhất định không ở dưới Lý Bạch. Đằng khác, nếu đặt sứ mạng của thi ca trong nghĩa vụ nhân sinh, thơ của Lý Bạch còn quá cách biệt thực tế. Cho nên, Vương An Thạch không ngần ngại xếp Lý Bạch nằm chót trong bảng danh sách liệt kê bốn nhà thơ lớn của đời Đường; với lý do, theo ý ông, thơ ấy tuy hay thực, đáng thưởng thức trong một giới hạn nào đó, nhưng quá vô nghĩa vì chỉ đầy rẫy những đàn bà và rượu. Sự hâm mộ thịnh hành đối với ca thi của Lý Bạch cố nhiên cũng có thể được giải thích bằng lý do này. Thơ ấy khuyến khích và thỏa mãn thị hiếu hưởng thụ của ‘đại đa số’. Người ta có thể, bằng vào thơ của Lý Bạch, tự khoác cho mình một phong thái tiên nhân, để rồi trong những phút giây nhàn hạ, muốn thoát ly ngoài những hệ phược phiền toái của đời sống, ngồi nhìn hàng vạn ngôi sao trên trời, uống rượu và hoan ca. Trường hợp đó không bao giờ có thể xảy ra cho ca thi của Hạ. Giữa cảnh khuya tịch mịch, giữa tiếng trùng, tiếng dế, giữa thế giới ma hờn, quỷ khóc, “khêu đèn mà nhìn tóc lông dựng đứng lên cả”, những cảnh tượng trong thơ Hạ như vậy đập vào mắt người đọc những ám ảnh hãi hùng, bất an. Say cơn say tỉnh dậy, Lý Bạch có thể thấy đời đẹp hơn; và nếu một chút ngậm ngùi về ý nghĩa của sự sống và sự chết có chợt hiện, thì nó lại khuyến khích những trận say sưa và quên lãng khác. Trong trường hợp Lý Hạ, sau cơn say tỉnh dậy, chỉ còn nước bưng ly rượu không mà kêu trời nhưng trời không có mắt.

Người ta tận dụng phong thái cuồng ngạo của Lý Bạch, mô tả thế giới thần tiên mộng tưởng của Lý Bạch như một ước mơ triền miên, vĩnh cửu của loài người. Thế nhưng, trên một phương diện, nếu Hạ có chỗ đáng bị chỉ trích, thì Lý Bạch lại đáng bị chỉ trích hơn nữa. Tô Đông Pha nói: “Lý Bạch chỉ là một cuồng sĩ; và, đã từng thất tiết nơi Vĩnh Vương Liên, thì không đáng gọi là con người tế thế”. Người ta không đòi hỏi nghĩa vụ tế thế của một nhà thơ nơi Lý Bạch, tại sao lại khăng khăng đòi hỏi nó phải có nơi Lý Hạ? Như thế, hiển nhiên các nhà phê bình Lý Hạ đã chịu ảnh hưởng lệch lạc của truyền thống thành kiến.

Thơ Lý Bạch rõ ràng chẳng giúp ích gì thực tế của đời sống ngoài sự kiện phơi bày cho người ta một thế giới viễn mộng để quên lãng trong hưởng thụ. Đã thế, ông còn theo bọn Vĩnh Vương Liên gây loạn với triều đình. Chắc chắn không phải ông theo vì tư tưởng cách mạng. Binh vực cho Lý Bạch, người ta nói là ông bị ép buộc. Dù trong hoàn cảnh nào, tự nguyện hay bị cưỡng bách, chừng đó để chứng tỏ khí tiết của một nhà thơ. Biện hộ cách nào cũng khó mà tẩy cho sạch cái điểm đáng gọi là “vết bẩn” ấy. Tất nhiên khi nói thế chúng ta không cố tình khe khắt, cực đoan. Tuy nhiên, cũng cần phải có một thái độ cực đoan như vậy, hay hơn thế nữa nếu cần, để làm hòa hoãn lại những tâng bốc, khoa đại phong độ tiên nhân của Lý Bạch. Nhờ đó, may ra có thể nhìn được thơ Hạ trong chiều hướng khác. Nơi Lý Bạch, khí huyết người đã kém, thì phong độ tiên nhân của ông rất đáng bị nghi ngờ. Đó cũng là chỗ mà Tô Tử Do phê bình Lý Bạch. Tử Do nói: “Thơ của Lý Bạch cũng y như con người của ông ta; tuân phát và hào hùng, hoa mỹ nhưng không thực, hiếu sự lại ưa danh, không biết lễ nghĩa và lý ở đâu…”

Ba nhà lãnh tụ văn học đồng thời, Vương An Thạch, Tô Đông Pha và Tô Tử Do, cùng sống trong một thời đại bấp bênh của chính trị trước thế lực đe dọa của ngoại xâm, họ không đồng khuynh hướng chính trị và xã hội, nhưng đã cùng đồng thanh chỉ trích tư cách con người của Lý Bạch. Sự chỉ trích này rất có ý nghĩa.

Tử Do, tiếp lời phê bình trên, lại nói: “Lý Bạch thoạt tiên đem thơ và rượu mà phụng sự Minh hoàng…” Quả vậy, suốt trong thời gian gần gũi Huyền Tông, được biệt đãi như thế, mà ngoài cái phụng sự nhà vua bằng thơ và rượu, tuyệt nhiên không thấy Lý Bạch nói được lời tiến cử hay gián nghị hữu ích nào. Thái độ của Lý Bạch lại còn gián tiếp tán thưởng đời sống xa hoa trụy lạc của nhà vua, bất biến những khốn cùng mà dân chúng phải gánh chịu cho đời sống xa hoa ấy. Nói một cách nghiêm khắc, thơ của Lý Bạch có đủ yếu tố để làm nô lệ và tán dương cuộc sống phóng đãng của bọn quyền quý. Thành kiến hẹp hòi của truyền thống và thị hiếu văn chương hưởng lạc, cả hai điều này giải thích xác đáng địa vị của Lý Bạch và Lý Hạ trong lịch sử thi ca Trung Quốc.

Được nhà vua biệt đãi, rồi được cả một thời đại hùa theo biệt đãi, Lý Bạch ngông cuồng và phóng khẩu bất chấp:

[2 câu chữ Hán]

Ngã bản Sở cuồng nhân
Phượng ca tiêu Khổng Khâu.

Phong thái thần tiên của Lý Bạch phát xuất từ chỗ cuồng nộ ấy:

[4 câu chữ Hán]

Thủ trì lục ngọc trượng
Triêu biệt Hoàng hạc lâu
Ngũ nhạc tầm tiên bất từ viễn
Nhất sinh hào nhập danh sơn du…

Hoàn toàn trái ngược với Lý Bạch về phong độ và đời sống, cho nên mặc dù bị vây khốn trong sự túng quẫn mà vẫn không dự tưởng một thế giới thần tiên. Một cách nào đó, Hạ bằng lòng chấp thuận định mệnh khốn đốn của mình. Ma quỷ, hoặc siêu thực hoặc hiện thực, vẫn là ý nghĩa của sự chấp thuận đó. Còn thần tiên, nếu có, đối với Hạ cũng chưa chắc tìm thấy một đời sống nhàn nhã tiêu dao. Hạ mô tả một Tiên nhân:

[8 câu chữ Hán]

Đàn cầm thạch bích thượng
Phiên phiên nhất tiên nhân
Thủ trì bạch loan vĩ
Dạ tào Nam sơn vân
Lộc ẩn hàn giản hạ
Ngư qui thanh hải tân
Đương thời Hán Vũ đế
Thư báo đài hoa xuân

Đàn gãy trên vách đá
Phất phơ một lão tiên
Tay cầm đuôi loan trắng
Đêm quét mây Nam sơn
Lửa uống nước suối lạnh
Cá bơi về biển xanh
Đương thời Hán Vũ đế
Thông báo hoa đào xuân.

Ngụ ý của bài thơ trên, theo chú giải của Vương Kỳ, có tính cách phóng túng hơn là ca ngợi: “Tiên nhân ở trong khoảng núi đầm, di dưỡng sự tĩnh mịch và giữ lấy sự nhàn hạ, thng dong tự đắc như lừa uống nước bên suối lạnh, như cá ui về biển trong để ẩn thân tránh xa những nguy hiểm, không can dự chuyện đời. Đáng lẽ như vậy, nhưng vì đâu tiên nhân lại sinh gặp thời Hán Vũ đế; nghe nói nhà vua có chí hâm mộ thần tiên, mời gọi các phương sĩ, khiến cho tiên nhân không thể giữ vững cái chí hăng của m2nh, phải đến để dâng thơ báo tin mùa xuân cho hoa anh đào. Bậc ngộ đạo tu chân không nên như vậy”.

Thần tiên mà chưa chắc đã tìm ra được một đời sống thanh thản, không bận rộn, huống nữa là người. Quả thực, khó bắt gặp một khoảng trời xanh bát ngát trong tho của Hạ để thưởng thức. Trên hết là sự hối thúc của mạng sống, mà sự trường thọ của thần tiên nếu có thì cũng chỉ có trong một giới hạn thời gian nào đó thôi. Bành Tổ, Vu Hàm, những người sống lâu của truyền thuyết thần thoại cũng chết mất từ đời nào. Hạ “Hạo ca”:

[4 câu chữ Hán]

Nam phong xuy sơn tác bình địa
Đế khiến Thiên Ngô di hài thủy
Vương Mẫu đào hoa thiên biến hồng
Bành Tổ Vu Hàm kỷ hồi tử

Gió nam thổi núi thành táng thần tiên, hoặc nói: đất bằng
Để sai Thiên Ngô dời đại dương
Hoa đào Vương Mẫu nghìn lớp hồng
Bành Tổ Vu Hàm mấy lượt chết.

Trong một cảnh ngộ long đong của sinh kế, Hạ không mơ về một thế giới thần tiên để trấn an hiện thực; và trong ám ảnh khốc liệt của tuổi thọ, Hạ cũng không tìm đến cõi bất tử của thần tiên. Tính siêu thực trong ca thi của Hạ hiển nhiên là giới hạn cuối cùng của tính hiện thực. Lý Thế Hùng nhận xét: “Người đời Đường hâm mộ thần tiên, mà Hạ lại nói: Kỷ hồi thiên thượng táng thần tiên, hoặc nói: Bành Tổ Vu Hàm kỷ hồi tử. Ấy là nói tiên cũng phải chết. Cái mà người đời sau sợ và cho là quỷ, thì Hạ nói: Thu phần quỷ xướng bào gia thi. Thế thì quỷ được coi như không có chết. Cho nên, sự sống và sự chết không phải là những điều mà Hạ bận tâm. Cái mà Hạ không thể chịu đựng nổi, đó là: nghìn năm đày đọa Hạ vào chỗ u uất, lăn lóc giữa cõi không phải chết, không phải sống, đè nén không cho cất đầu lên được, không thể nhướng mày, khua lưỡi, khạc máu, rửa sạch gan ruột ở trước mặt trời. Phải chăng ấy là cái khổ lớn lao của Hạ”.

2.

Dù sao, địa vị của Hạ trong lịch sử văn học Trung quốc rất khiêm nhượng, được xếp vào nhóm thơ “Khổ ngâm”, đồng bọn với Mạnh Giao, Lư Đồng và Giả Đảo, mà dẫn dầu đương nhiên là Hàn Dũ (768-824). Hàn Dũ lớn hơn Hạ khoảng 41 tuổi. Đương thời, ông cùng với Liễu Tông Nguyên (tự Từ Hậu; 773-815) xứng danh là hai nhà lãnh tụ chủ xướng “Phong trào Cổ văn”. Văn xuôi Trung quốc kể từ Hán, Nguỵ trở về sau bị gò bó theo lối đối ngữ, do đó, họ chủ trương trở lại truyền thống cổ. Thơ của ông hào phóng, được kể là một đại gia sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Bởi thiên tài kiệt ngộ, ông không chịu theo lối thơ quán lệ, dễ dãi của thời Trung Đường, nên có thị hiếu hiểm hóc, quái dị. Cũng vì vậy, ông rất ưa thơ của Hạ. Tuy nhiên, sở trường của ông là văn chứ không phải là thơ.

Trừ Hàn Dũ, những người còn lại, kể cả Hạ, tỏ ra say mê thi ca một cách đặc biệt. Đời sống của họ cũng khốn quẫn như nhau, và sự giao du của họ cũng có giới hạn như nhau. Lý Hạ, Mạnh Giao, Lư Đồng, đó là những khuôn mặt của định mệnh thi ca. Có thể, chính thơ đã đưa họ vào ngõ cụt của đời sống; hoặc giả ngược lại, , chính đời sống khốn quẫn mà họ bị thắt chặt vào định mệnh thi ca.

Mạnh Giao, tự Đông Dã (751-814), lớn hơn Hạ 40 tuổi. Giao người Lạc Dương, ẩn cư Tung Sơn mãi đến 50 tuổi mới chịu đến Trường An để dự thi tiến sĩ. Năm Trinh Nguyên thứ 12 (796), ông trúng cách. Bốn năm sau được bổ làm Phiêu Dương úy. Nhưng ông tỏ ra không tha thiết với quan chức cho lắm. Gần huyện Phiêu Dương về phía nam bấy giờ còn có di tích của thành Bình Lăng, chu vi hơn một nghìn bộ, cây cối um tùm, có gốc to đến 10 vây. Tìm được một nơi vắng vẻ thâm u như vậy, hằng ngày Giao đến đây, ngồi ngâm thơ quên về cho đến tối.

Hàn Dũ rất trọng vọng Mạnh Giao. Trong một bức thư gởi Mạnh Giao, ông tự mô tả sự cô độc của mình, mà cũng ám chỉ đến cuộc đời của Giao: nói thì không có người nghe, mà xướng thì không có người họa. Rồi ông ca ngợi Giao: “Túc hạ tài cao, khí thanh, hành theo cổ đạo mà xử sự giữa đời nay… Sự xử thân của túc hạ vừa nhọc, vừa khổ. Đời đua nhau bon chen vào chỗ hỗn trược, riêng tấm lòng của túc hạ vẫn theo đuổi cố nhân. Cái đẹp của túc hạ khiến tôi bị cảm…”

Thơ của Mạnh Giáo là những tình tự bi thiết của một lãng tử, một lữ khách:

[8 câu chữ Hán]

Đỗ quyên thanh bất ai
Đoạn viên đề bất thiết
Nguyệt hạ thùy giai châm
Nhất thanh trường nhất tuyệt
Xử thanh bất vị khách
Khách vãn phát tự bạch
Xử thanh bất vị y
Dục linh du tử quý

Máu trào, quyên đổ lệ;
Đứt ruột, vượn kêu thương
Chày ai khua trăng bạc,
Mỗi tiếng một đoạn trường.
Chày khua không giục khách
Khách nghe tóc mình bạc;
Chày không giũ áo ai
Du tử nhớ ngày về.

Bài thơ nào của Mạnh Giao cũng vậy, cũng gợi lên một mối sầu cô lữ bi thương, những dau khổ đoạn trường:

[4 câu chữ Hán]

Thực trai trường diệc khổ
Cưỡng ca thanh vô hoan
Xuất môn tức hữu ngại
Thùy vị thiên địa khoan

Ăn chay, nghe đắng ruột
Gượng ca, giọng não nề
Ra đường thấy nghẽ lối,
Ai bảo trời đất dài.

Khi đọc bài thơ này, Tô Tử Do phê bình các nhà thơ đời Đường: “Ít ai chịu học đạo”; bởi vì Giao là con người khe khắt, dù trời cao đất rộng vẫn không có chỗ dung thân.

Trương Văn Tiềm nhận xét: “Cuối đời Đường, thi nhân phần lớn là những cùng sĩ. Đông Dã và Lăng Tiên đều làm thơ mà đẽo gọt đến cùng khổ”. Nhận xét này có lẽ rất xác đáng đối với Giả Đảo.

Giả Đảo, tự Lăng Tiên (788-843), mà cuộc đời long đong chỉ vì say mê làm thơ, mặc dù ông không có gì đặc sắc.

Khác với Mạnh Giao và Giả Đảo, chỉ đồng cảnh ngộ sinh nhai túng quẫn với Hạ, riêng Lư Đồng mới thực chứng tỏ không những đồng cảnh ngộ mà còn đồng cả thị hiếu thi ca, tuy tài năng không cùng tương đối.

Lư Đồng, tự hiệu Ngọc Xuyên Tử, ngụ Lạc Dương. Khi Hàn Dũ ngồi ghế Hà Nam lệnh tỏ ra thích thơ của Đồng. Thơ của ông hay nói đến những sự quái dị, những lời hiểm hóc, cũng đáng kể là một loại quỷ thi như Lý Hạ:

[4 câu chữ Hán]

Thiên công phát nộ hóa long xà
Thử long thử xà đắc tử bịnh
Thần Nông hiệp dược cửu tử mệnh
Thiên quái Thần Nông đảng long xà

Thiên công nổi giận hóa rắn rồng,
Rắn ấy rồng ấy vương tử bịnh
Thần Nông chế thuốc cứu tử mệnh
Trời lạ Thần Nông phe rắn rồng.

Sự giao thiệp giữa Lư Đồng và Lý Hạ không được rõ, cho nên cũng khó quyết đoán về ảnh hưởng hỗ tương giữa họ. Sở thích tương đồng tất nhiên không thể phủ nhận.

Nhận xét chung về Mạnh Giao, Lư Đồng và Lý Hạ, Liệp trách tòng thơ nói: “Tôi nghe rằng nếu hoang phí bằng những săn bắn và chài lưới ấy là tàn bạo, mà lại mang ra đẽo gọt, bóc lột, phơi trần tình trạng được sao?

Từ cái trứng còn non cho đến khô chết mà không để chúng được yên thân, trời há không trừng phạt được sao? Trường Cát yếu, Đông Dã cùng, Ngọc Khuê Sinh thì quan tước chưa được ghi vào sổ triều đình, chính là vì vậy”.

Những lời nhận xét này hình như đã nguyền rủa quá nặng.

3.

Xét về cá tính, Hạ đáng được liệt vào số những nhà thơ “Khổ ngâm” ấy. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy một cách dễ dàng dị biệt lớn lao về cá tính của họ. Trong khi Mạnh Giao, Lư Đồng, Giả Đảo, ngoài sở thích duy nhất là làm thơ và sống trọn vẹn cho những ám ảnh dày xéo của thơ, họ không tỏ ra có một chút tha thiết với công danh hay sự nghiệp. Trái lại, nơi Hạ người ta thấy có một cái ước mơ sôi nổi và trẻ trung. Cho nên, khi Hạ lần đầu tiên tìm đến Hàn Dũ, Nhạn môn Thái thủ hành bộc lộ rõ rệt cái khát khao hùng tâm tráng khí của tuổi trẻ. Rồi khi hân hạnh đón Hàn Dũ và Hoàng Phù Thực, Hạ không tiếc lời tán dương tài năng văn học của Dũ, mà cũng ngụ ý có thể bằng tài năng ấy mình thị hùng được với thiên hạ:

[2 câu chữ Hán].

Điện tiền tác phú thanh ma không
Bút bồ tạo hóa thiên vô công.

Bệ rồng cách điệu vút cao không
Văn chương tái tạo thay Thiên công.

Cố nhiên, Hạ đã khoa đại sứ mạng và khả năng của văn chương, mà chúng ta khỏi phải biết nó là văn chương của Hàn Dũ hay của chính Hạ. Điều chắc chắn, khi Hạ chạn trán với sự thất bại, văn chương bấy giờ dù vẫn là một nguồn an ủi vô biên, một điểm tựa tinh thần vững chãi, nhưng có lúc Hạ không khỏi cảm thấy sự vô nghĩa của nó.

[1 câu chữ Hán]

Văn chương hà xứ khốc thu phong.

Có lẽ Hạ đang mơ sự nghiệp của Tần Thủy Hoàng, mơ cuộc chinh phục vĩ đại suốt một đời dậy đất từ Lâm Thao đến Liêu Đông? Cũng có khi Hạ ước mơ sự nghiệp của Trương Tử Phòng, muốn đen Lục thao mà thay thế cho Sở từ.

[4 câu chữ Hán]

Tam thập vị hữu nhị thập du
Bạch nhật trường cơ tiểu giáp sơ
Kiều đầu trưởng lão tương ai niệm
Nhân di Nhung thao nhất quyền thơ.

Ba mươi chưa đến hai mươi đã hơn;
Ngày đói, sơ sài ăn mấy cọng rau.
Đầu cầu, trưởng lão thương tình,
Tặng cho một quyển nhung thao.

Hạ muốn bỏ con đường văn chương:

[2 câu chữ Hán]

Nam nhi hà bất đới Ngô câu
Thu thủ quan an nhị thập châu

Tuổi trẻ, đáng lý phải cầm thanh gươm Ngô câu,
đoạt lại hai mươi chân quận cho triều đình.

Ước muốn này có thể không chỉ là một ước muốn suông. Quả vậy, trong thời Hạ, kể từ cuộc dấy loạn của An Lộc Sơn về sau, khoảng hai phần ba lãnh thổ thoát ra ngoài thế lực kiểm soát của triều đình trung ương,

Nhà Đường, vì đề phòng bị thế lực đe dọa của các chủng tộc nhược tiểu chung quanh, nên đặt ra các Tiết độ sứ, quản lãnh binh mã các châu quận, với quyền tự chủ về mặt nhân lực và lý tài. Một tiết độ sứ lớn có thể quản lãnh đến 10 châu. Nếu thế lực của triều đình trung ương không thể lan rộng đủ để kiềm chế họ, các Tiết độ sứ trở thành những lãnh chúa trong vùng đất họ cai trị, và tự do lựa chọn người kế vị, thế tập, truyền tử lưu tôn. Sử gọi đó là họa phiên trần. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7 (809), Lý Giáng báo cáo: “Nay những nơi mà pháp lệnh của triều đình không kềm chế được, gồm hơn 50 châu thuộc các vùng Hà Nam và Hà Bắc”.

Hạ vừa trưởng thành là đã chứng kiến ngay sự bành trướng của thế lực phiên trần ấy. Vốn dòng dõi tôn thất, không rõ Hạ lo ngại đến mức nào trước nguy cơ sụp đổ của cơ nghiệp tổ tiên. Sự suy luận của Tống Uyển không hẳn là không có lý: “Khuất Nguyên vì khóc cho sự suy vong của tông quốc nên nỗi buồn quá lớn mà lời lẽ thiết tha. Hạ ở trong thời bình sao lại cũng bi ai, phẫn hận, mửa gan ruột bằng những lời lẽ ngụy quyệt…? Hạ vốn là vương tôn, nên cũng có những ưu tư về vận mệnh quốc gia: Sự phi lý trong chính sách hòa thân của triều đình, sự cuồng dại trong thái độ hâm mộ tiên thuật của các vua chúa, sự chuyên quyền của các phiên trấn, tư cách xuất lãnh binh mã của bọn hoạn quân… Khư khư ôm mối cô trung của chức quan Phụng lễ thái thường quá nhỏ, trên không nói thấu thiên tử mà dưới cũng không thể bàn ra với quân thần; đành phải khấp khểnh vó lừa những nơi thâm u, hoang dã…”

Trên đây chỉ là suy luận không bằng chứng xác thực. Tuy nhiên, chắc chắn Hạ thống hận các sự bạo ngược của các lãnh chúa phiên trấn, gọi họ là những thứ “Cọp Dữ”, Mãnh hỗ hành:

[16 câu chữ Hán]

Trường qua mục thung
Cường nõ mạc bằng
Nhụ tôn bố tử
Giao đắc sinh nanh
Cử đầu vi thành
Trác vĩ vi tinh
Đông hải Hoàng công
Sầu kiến dạ hành
Đạo phùng xu ngu
Ngưu Ai bất bình
Hà dụng xích đao
Bích thượng lôi minh
Thái sơn chi hạ
Phụ nhân khốc thanh
Quan gia hữu trình
Lại bất cảm thinh.

Giáo dài không thủng
Nõ mạnh không phủng
Nuôi cháu nuôi con
Cho nên nanh vuốt
Ngẩng đầu làm thành
Chống đuôi làm cờ
Hoàng Công biển đông
Sợ hãi đi đêm
Cọp trắng giữa đường
Ngưu Ai bất bình
Đao thước mà chi
Trên tường sấm gào
Dưới núi Thái sơn
Tiếng khóc quả phụ
Quan gia có trình
Quan lại không nghe.

Sự bạo ngược của các lãnh chúa phiên trấn dữ hơn cọp dữ, đến độ giáo dài, nõ mạnh không làm gì được; không có sức mạnh nào kềm chế nổi chúng.

Họ không thần phục triều đình; tự quyết về vấn đề thế tập. Cha truyền con nối, tự do củng cố thế lực riêng để tạo phản. Triều đình đến lúc suy yếu phải kiêng dè họ. Sự kiện ấy không khác nào Đông hải Hoàng công, một tay bắt cọp thiện nghệ, tuổi về già trở lại bị cọp hại.

Khi thế lực đã mạnh, sự tàn ngược lại càng tệ hại hơn cả cọp thật.

Trong các thế lực phiên trấn thời bấy giờ, mạnh nhất phải kể là Thành đức quân Tiết độ sứ Vương Thừa Tông, quán lãnh Hà Bắc, và Hoại tây Tiết độ sứ Ngô Nguyên Tế. Vương Thừa Tông dấy phản vào năm Nguyên Hòa thứ 4 (809). Ngô Nguyên Tế, niên hiệu thứ 10 (815). Trước đó không lâu, Nguyên Hòa thứ nhất (806), Tiết độ sứ Lưu Tịch phản, bấy giờ Hạ mới 13 tuổi. Năm sau, Tiết độ sứ Lý Kỳ phản.

Khi Vương Thừa Tông tạo phản, Đường Hiển Tông sai hoạn quan Thổ Đột Thừa Thôi suất lãnh binh mã chinh phục. Đây lại là một cái họa khác đe dọa chế độ: cái họa hoạn quan. Thực sự, chúng chỉ là hạng “phó phấn nữ lang”, mà tài nghệ chỉ xứng đáng để thoa son trét phấn hơn là đủ tư cách một tướng soái cầm quân ra trận. Nhưng nhà vua đã tin dùng, trao quyền điều động binh mã cho chúng. Cái nhục thảm bại khó tránh.

Khi Thổ Đột Thừa Thôi suất lãnh binh mã các đạo Hà Trung và Hà Dương chinh thảo Vương Thừa Tông, thì Hạ coi cuộc hành quân này không khác cuộc hành lạc của một bà hoàng: Quí chủ tây chinh hành lạc. Hạ mô tả: Kỵ binh toàn là một bọn thị tỳ, kết thành một hàng giáp sắt bằng màu đồng vàng rực, cờ thì làm bằng lụa là; cột cờ bằng gỗ hương dát vàng lá… Một đoàn quân chuẩn bị đối địch với kẻ thù mà quân trang, quân cụ cực kỳ xa hoa tráng lệ như vậy, rõ ràng nó là một đoàn vệ binh ủng hộ chúa đi dạo chơi:

[8 câu chữ Hán]

Hề kỵ hoàng đồng liên tỏa giáp
La kỳ hương cán kim họa điệp
Trung quân lưu tý Hà dương thành
Kiều tê tỉ yến đạp hoa hành
Xuân doanh kỵ tướng như hồng ngọc
Tấu mã sao tiên thượng không lục
Nữ viên tố nguyệt giốc y y
Nha trường vị khai phân cẩm y

Đội liên tỏa, đoàn binh thị nữ,
Cờ tung bay sắc lụa phấn hương.
Trung quân say ngủ Hà dương,
Líu lo con én sa trường rải bông.
Tướng kỵ mã vẻ hồng tha thướt
Ngàn dâu xanh ngựa lưt đầu roi
Trăng nghiêng trên ải tiếng còi
Trướng nha còn khép nghe đòi khao quân.

Nơi khác, bài Hoàng gia động của Hạ châm biếm nhức nhối thái độ khiếp nhược của quân triều trước sự tung hoành của bộ đội Mán tộc Hoàng Thiếu Khanh:

[8 câu chữ Hán]

Tước bộ xúc sa thanh xúc xúc
Tứ xích giốc cung thanh thạch thốc
Hắc phan tam điếm đồng cổ minh
Cao tác viên đề dao tiễn bặc
Thế cân triền hiếu bức bán tả
Khê đầu thốc dội ánh cát hoa
Sơn đàm vãn vụ ngâm bạch đà
Trúc xà phi đố xạ kim sa
Nhân khu trúc mã hoãn quy ga
Quan quân tự sát Dung châu tra

Bước chập chững cát khua xào xạc.
Mũi đá xanh bốn thước giốc cung.
Cờ đen ba điểm trống đồng,
Kêu gào tiếng vượn lùng bùng tuổi tên.
Dải khăn lụa quấn chân nửa mảnh,
Rọi đoàn quân bông sắn đầu truông,
Sấu ngâm, sương xế, ao rừng
Mọt bay, rắn lục, bắn tung cát vàng
Bước về vó ngựa nghênh ngang
Quân triều vuốt mặt chém quàng đọt tra.

4.

Phiên trấn và hoạn quan không chỉ là những đe dọa trực tiếp đối với triều đình; chúng còn là nguyên nhân trực tiếp cho những thống khổ của dân chúng. Các nhà thơ trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-820) như Bạch Cư Dị, Nguyên Chấn, Trương Tịch, Vương Kiều, đã cố chứng tỏ sứ mạng văn chương của họ, nói tiếng nói khốn cùng của những người bị áp bức. Cọp dữ, đối với các nhà thơ này, không chỉ là một biểu tượng của một chế độ hay một chính sách cai trị tàn ngược mà đức Khổng Tử dùng để ám chỉ; từ nay, nó chính là hiện thân trong lốt người của bọn quan lại.

Chúng ta có thể thấy được những lời ta thán thống thiết của dân chúng thời bấy giờ qua các thể cách bình dị trong Đỗ lăng tẩu của Bạch Cư Dị. Đó là một trong những bài tân nhạc phủ; Bạch Cư Dị mô tả cảnh khổ của nông phu, qua đời sống của lão giả tại Đỗ Lăng. Ở đó, hằng năm ông làm một khoảng ruộng; tháng 3 bắt đầu vỡ đất thì trời hạn không mưa. Khi gieo được mạ, phần lớn bị hoang trùng phá hoại. Đến tháng 9, lúa trổ đòng đòng lại bị sương móc. Trước khó khăn bởi thiên tai đó, quan trường sử biết nhưng làm ngơ, và thẳng tay trưng thế. Rồi sang năm, ông lão sẽ lấy gì mà ăn? Bọn chúng lột chiếc áo che thân của lão, cướp miếng cơm đang trong miệng của lão. Quả chúng là những con chó sói:

[4 câu chữ Hán]

Bác ngã thân thượng bạch
Đoạt ngã khẩu trung túc
Ngược nhân hại vật tức sài lang
Hà tất câu trảo cứ nha thực nhân nhục?

Lão phu thái ngọc ca của Hạ, trong cùng hoàn cảnh tương tọ, đáng coi là một bài bằng máu và nước mắt của một lão giả sưu dịch, bị sung công đi mò ngọc bích cho quan:

[12 câu chữ Hán]

Thái ngọc! Thái ngọc! Tu thủy bích
Trác tác bộ dao đồ hào sắc
Lão phu co hàn long vị sầu
Lam khê thủy khí vô thanh bạch
Dạ vũ cương đầu thực trăn tử
Đỗ quyên khẩu huyết lão phu lệ
Lam khê chi thủy yểm sinh nhân
Thân tử thiên niên hận khê thủy
Tả sơn bách phong vũ như khiếu
Thân tử thiên niên hận khê thủy
Tà sơn bách phong vũ như khiếu
Truyền cước quải thằng thanh niếu niếu
Thôn hàn bạch ốc niệm kiều anh
Cổ đài thạch đặng huyền trường tháo

Quan bắt mò ngọc, mò ngọc biếc;
Giũa thành trang sức cho đẹp mắt
Lão phu đói, lạnh, rồng cũng rầu;
Hơi nước suối Lam không thanh bạch,
Mưa đêm trên gò, lão gặm cỏ.
Lệ lão, đỗ quyên miệng máu đỏ
Dòng nước suối Lam nhận chìm người;
Thân chết, nghìn năm còn hận nó.
Mưa gào, núi nghiêng, bach lộng gió;
Lặn suối, buộc chân, xanh mớ nhợ.
Xóm lạnh, nhà trơ, thương vợ con;
Cổ đài, bậc đá, loài cỏ nhớ.

Sự uất hận của lão già không nơi phát tiết: nếu bất hạnh mà bị thiệt mạng trong lòng suối thì cũng chỉ có thể mang mối hận triền miên đối với những dòng suối mà thôi, không tiết hận đến nhà quan được. Đây là chỗ trầm thống nhất trong thơ Hạ. Oan khuất luôn luôn là một tình tự kín đáo: sống im lặng và chết cũng im lặng. Đó cũng là nét trong sắc thái quỷ thi của Hạ.

Đương thời, Đức Tông có thói ưa súc liễm tài sản, do đó, để tâng công, một số các Tiết độ sứ đánh thêm thuế “tiện dư”, gọi là thuế thặng dư đánh trên mỗi gia đình. Trong mỗi gia đình, trừ một ngườ, số còn lại được coi là thặng dư. Đức Tông lại cho lập hai kho lớn tại Phụng Thiên để súc chứa những đồ phủ cống. Bài thơ Trọng Phú, thuế khóa nặng nề, của Bạch Cư Dị, mô tả tình cảnh khổ sở của chính sách thuế khóa này, và cũng vẽ ra sự tương phản iu74a cái đói rách của dân chúng và kho lẫm cao vọi của quan nha.

[6 câu chữ Hán]

Tạc nhật thâu tàn thuế
Nhân khuy quan khổ môn
Tằng bạch như sơn tích
Ty nhử tợ vân đồn
Hiệu vi tiện dư vật
Tùy nguyệt biến chí tôn.

Bác nông phu đi đóng thuế, nhân đó liếc mắt nhìn vào kho quan : lụa là chất cao như núi; tơ sợi chất đống như mây. Những thứ này được gọi là những vật “tiện dư”, hằng tháng được dâng hiến lên vua.

Và tiếp ngay sau đó, tả oán: [4 câu chữ Hán]

Đoạt ngã thân thượng noãn
Mãi nhĩ nhãn tiền ân
Tiến nhập Quỳnh lâm khố
Tuế cửu hóa vi trần.

Cướp đoạt sự ấm trên mình của ta, để mua cái ân huệ Thiên tử trước mắt bọn bây; của dâng vào kho Quỳnh Lâm, dùng không hết, lâu ngày hóa thành đất cát.

Cố nhiên, Hạ không thể có lối mô tả hiện thực như Bạch Cư Dị. Bởi vì cá tính của thơ Hạ vốn giàu ẩn dụ. Do đó, có nhiều chất phúng thích hơn là “tố giác”. Ở đây, chúng ta sẽ thấy Hạ mô tả thái độ của một huyện quan đi trưng thuế. Quan mặt mày hầm hầm, giận dữ, cưỡi ngựa đến tận nhà dân để hối thúc đóng thuế. Thuế được trưng ở đây là vải lụa. Đời Đường, bấy giờ vì nhu cầu mua ngựa Hung nô nên cần rất nhiều vải lụa; số cần dùng có thể lên đến 500.00 tấm lụa mới mua đủ số ngựa cho triều đình. Huyện quan có lịnh trưng, nhưng nhà dân chưa dệt kịp, khất hẹn đến mùa xuân, đợi tầm nhả tơ đã. Rồi họ dọn cháo mời huyện quan ăn. Ăn xong, huyện quan có vẻ hài lòng, và nguôi giận ra về. Nhưng, ngay sau đó, ông gọi thầy lại giữ sổ bạ lên hầu. Dĩ nhiên là sai đến đòi nữa, chúng ta nghe giọng điệu châm chích của Hạ:

[20 câu chữ Hán]

Hiệp phố vô minh châu
Long châu vô mộc nô
Túc tri Tạo hóa lực
Bất cấp sứ quân tu
Việt phụ vị chức tác
Ngô tàm thủy nhu nhu
Huyện quan kỵ mã lai
Nanh sắc cù tử tu
Hoài trung nhất phương bảng
Bảng thượng số hàng thơ
Bất nhân sứ quân nộ
Yến đắc nghệ nhĩ lô
Việt phụ bái huyện quan
Tang nha kim thượng tiểu
Hội đãi xuân nhật yến
Ty xa phương trịch trạo
Việt phụ thông ngôn ngữ
Tiểu cô cụ hoàn lương
Huyện quan đạp xan khứ
Bạc lai phục đăng đường

Hiệp phố không minh châu,
Long châu không mộc nô;
Dù biết sức tạo hóa,
Không thỏa sứ quân cầu.
Việt phụ chưa canh cửi,
Tắm Ngô vừa ngo ngoe.
Quan huyện cưỡi ngựa đến,
Sắc giận tía râu cù.
Tay ngài một bảng vuông,
Trên bảng chữ vài hàng
Không vì sứ quân giận,
Đâu dễ đến nhà tranh.
Việt phụ lạy huyện quan:
“Chồi dâu vừa mới lú,
Xin đợi cuối mùa xuân
Xe tơ mới quay được”.
Việt phụ nói lưu loát
Tiểu cô dọn hoàng lương.
Quan đớp rồi đi mất.
Gọi thầy lại đăng đường.

5.

Bài thơ dưới đây của Hạ “Bình Thành hạ”, mô tả đời sống của lính thú tạ Bình Thành, một biên trấn gần Trường Thành. Đặc điểm của bài thơ, như Vương Kỳ nhận xét, nói lên cái khổ của lính thú biên trấn vì sự ngược đãi của chủ tướng mà trong đó không lộ một chữ nào có vẻ oán hận:

[16 câu chữ Hán]

Cơ hàn Bình thành hạ
Dạ dạ thú minh nguyệt
Biệt kiếm vô ngọc hoa
Hải phong đoạn mấn phát
Tái trường liên bạch không
Diêu kiến Hán kỳ hồng
Thanh trướng xúy đoản địch
Yên vụ thấp họa long
Nhật vân tại thành thượng
Y hy vọng thành hạ
Phong xuy khô bồng khởi
Thành trung tế sấu mã
Tá vấn trúc thành lại
Khứ quan kỳ thiên lý
Duy sầu hoài thi qui
Bất tích đảo qua tử.

Đói rét dưới Bình thàn
Đêm đêm canh ánh trăng
Gươm nhà không trỗ ngọc
Sa mạc rát tóc xanh
Quan ải trơ trời trắng
Xa trông cờ Hán hồng
Trướng xanh thổi địch vắn
Sương khói điểm hình rồng
Sớm hôm ngồi trên thành
Vơ vẩn nhìn xuống dưới
Gió thổi bồng khô tung
Trong thành ngựa ốm hí.
Muốn hỏi người xây thành
Cách quan mấy nghìn dặm
Rầu nỗi bọc thây về
Sợ gì chết tên đạn.

Không phải thơ không tỏ một chút oán hận. Cái hận ấy được gói trong hai câu chót: người lính thú không sợ chết vì tên đạn nơi chiến trường, nhưng sợ chết vì đói lạnh.

6.

Đời Đường, Thái úy Phòng Quản (697-763), thiếu thời ẩn cư học tập trong núi Chung Nam, thỉnh thoảng nghe dưới vách núi có tiếng rồng gầm, trong mà tĩnh, khiến người nghe có thể dập tắt được cái tư tưởng tà vạy. Bấy giờ, có một thầy tăng hiếu sự lén lấy cái bát bằng đồng giả làm tiếng rồng ngâm. Khi Phòng Quản tình cờ đến chơi chùa, nghe văng vẳng có tiếng rồng ngâm lại từ Chung Nam dời đến đây. Thầy tăng này mới đem cái bát ra và gõ. Phòng Quản kinh ngạc: Quả là rồng thiệt ngâm đó. Năm 778, một thầy tăng khác, có thể bắt chước được tiếng rồng ngâm theo kiểu này, đến thăm Kiều Nhiên. Nhiên vốn là dòng dõi Tạ Linh Vận, văn chương cũng có tiếng và  cùng giao thân với Vị Ứng Vật. Bấy giờ Kiều Nhiên viết bài thơ “Gõ bát đồng giả tiếng rồng ngâm” với một bài tựa giới thiệu. Nguồn gốc của Giả long ngâm được loan truyền bởi bài tựa này. Hạ làm bài thơ Giả long ngâm:

[14 câu chữ Hán]

Thạch trát đồng bôi
Ngâm vịnh khô tụy
Thương ưng bãi huyết
Bạch phượng hạ phế
Quế từ tự lạc
Vân lộng xa cái
Mộc từ sa băng ác khê đảo
A mẫu đắc tiên kim bất lão
Đảm trung kiếu thải triệt thanh diên
Ôi nhuyên ngọa thùy mai kim trảo
Nhai đặng thương thương điếu thạch phát
Gian quân yếm trướng viên đang chiết
Liên hoa khứ quốc nhất thiên niên
Vũ hậu văn tinh do đới thiết

Đá gỗ chén đồng
Ngâm nga khô héo.
Ưng xanh máu trào,
Phượng trắng rơi phổi.
Hạt quế tự rụng,
Mây vờn tán xe.
Cây chết, cát ở, khe đảo dữ;
Vương Mẫu được Tiên, thành bất lão.
Dải rồng trong hang đã đào thải,
Mõm đất, nước đọng, vùi móng vàng.
Rêu phủ sườn non điếu trắc ly;
Giang quân buông rèm ôm bóng tre.
Liên hoa từ biệt nghìn năm trước.
Mưa tạnh còn khua tiếng sắt đe.

Vương Kỳ nhận xét về ngụ ý của bài thơ: “Bài thơ này nhân rồng giả ngâm mà nghĩ đến rồng thiệt; cười thiên hạ đối với rồng thiệt thì xua đuổi, nhưng kẻ hiếu sự lại tả tiếng của nó để làm vui. Người ta nghe đến sự thiệt thì không thích, mà chỉ ưa thích những cái không thiệt. Ngụ ý quả là rất sâu xa”.

Với nhận định này, qua những gì mà chúng ta đã có thể kết luận về Hạ, một nhà thơ ở giữa lòng thời đại, đến đây chúng ta tất thấy rõ giới hạn các lời phê bình, chỉ trích Hạ, theo đó, thơ Hạ ngoài những quỷ trâu, thần rắn, tuyệt không có gì đáng nói. Như vậy, nhận định của Đỗ Mục rất xác đáng: “Giả sử Hạ sống lâu hơn nữa để thêm cái Lý cho thơ của mình, hẳn có thể phục sự cho Ly tao được vậy.

Văn học

các tác phẩm của Hoà thượng Tuệ Sỹ
  • Xuyên qua khung cửa sổ, chú thấy một mái tóc chảy dài, nghiêng nghiêng theo âm điệu to nhỏ và tiết điệu buông lơi của tiếng đàn. Trên cao một chút, bóng đèn sữa đục được ủ trong một ánh sáng ấm áp của chính nó.

  • Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu.

  • Lô sơn chân diện mục

    Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng

    Lô sơn là một danh thắng kỳ tuyệt. Núi non hùng vĩ, cảnh trí u trầm, mây trắng và sương mù quanh năm bao phủ, từ bao nhiêu đời, nơi đó ẩn tích những cao nhân đắc đạo.

  • Trong bất cứ nền văn học nào của Phật giáo, chúng ta có thể thấy rằng, dù khởi sự từ đâu, tất cả mọi nguồn cảm hứng đều quy về nhân cách và đời sống của đức Phật.

  • Thơ lục bát của Viên Linh, bên ngoài khoác y trang nho nhã của Cụ Ôn Như Hầu nhưng bên trong lại cưu mang tâm tình nổi loạn của Rimbaud.

  • Lịch nghiệm kỳ cùng cuộc lữ

    Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng

    Cõi thơ, có đến và có đi, nhưng không hề có dấu vết. Một cánh chim nhạn, một cánh chim hồng, ngoài ven trời vạn dặm.

  • Dễ chừng suýt soát 40 năm tôi chưa được trở lại Trúc Lâm, tuy cũng có lần trở lại để mong tìm lại vết tích xa xưa, nhưng sự vật biến thiên, mà lòng người chắc cũng đổi khác.

  • Khuyết nguyệt quải sơ đồng

    Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng

    Khuyết nguyệt; đó là mảnh trăng non, là con trăng sơ huyền. Trăng của thời kỳ vừa chớm, và thơ cũng sẽ bắt đầu từ một cõi mộng đơn sơ.