Tuệ Sỹ & Tinh thần Quý tộc Đông phương

Inra Sara

Tin Tuệ Sỹ mất, tôi không buồn.
Như thuở làm sinh viên Sài Gòn 1977-78, người tôi muốn tìm gặp không là Chế Lan Viên, không phải Bùi Giáng hay Trịnh Công Sơn, mà Tuệ Sỹ – duy nhất. Không gặp được ông, tôi không buồn. Nghe tin ông bị kết ản tử hình, tôi cũng không buồn.

Tại sao? Bởi tôi biết ông không thể chết, nói khác đi: Tinh thần Quý tộc Đông phương nơi ông không thể bị giết chết.

Khác với nỗi sa đọa của ngôn ngữ thời thượng, khi đại bộ phận quần chúng cho rằng quý tộc hẳn thuộc thành phần giàu có. Mà giàu có hôm nay là giàu từ thói tham lam vô độ “ăn của dân không từ thứ gì”, giàu từ dối trá trắng trợn, hoặc trục lợi nhờ khai thác sơ hở của pháp luật. Và giàu ấy phải được thể hiện qua ở biệt thự, đi xe sang, tiệc tùng sơn hào hải vị với kẻ hầu người hạ, thỉnh thoảng đi chùa làm thiện nguyện. Ngoài ra không gì hơn không gì khác.

Là thứ giàu mà không sang, phú mà thiếu quý.

Ngược lại sinh linh mang tinh thần quý tộc hội đủ ba yếu tố:

  1. Ý thức đào luyện văn hóa không ngưng nghỉ, văn hóa không chỉ hạn định ở mở rộng hiểu biết, mà còn phát triển đời sống tâm linh;
  2. Ý hướng tự do, tự do đòi hỏi kỉ luật tự thân nghiêm ngặt, để không phải lụy bất cứ thứ gì trói buộc khả tính của mình; và
  3. Tinh thần trách nhiệm: thành tín, danh dự và tràn dũng khí.

Tuệ Sỹ là con người như thế.

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ…

Ông ghé trần gian này một lần và chỉ một lần, rồi đi, tinh thần cùng khí chất quý tộc ông ở lại, cùng nỗi kiêu hãnh sang trọng. Như mạch nước ngầm, dòng sông ẩn mãi trầm chảy dưới mảnh đất hình chữ S này.

Inra Sara

Cảm nghĩ

các bài viết về Hoà thượng Tuệ Sỹ
  • Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ.

  • Hành trạng của hai bậc đại tăng, một người lưu vong trên đất khách 64 năm chưa trở về và một người lưu vong trên chính quê hương mình với một án tử hình.

  • Tôi chưa hề có ý “dám viết” về Ôn Tuệ Sỹ – người mà tôi rất kính trọng và thân thiết. Có thời tôi đã từng gọi Ôn là chú Sỹ, rồi anh Sỹ đầy tình cảm thân thương.

  • Với nội lực sở tri và sở hành Phật Pháp thâm sâu, dù ở trong lao tù Thầy vẫn an nhiên tự tại: “Trách lung do tự tại, tán bộ nhược nhàn du.”

  • Hôm nay chúng con được thấy di chúc của Thầy: tang lễ bình thường, không điếu văn, sổ tang, phúng điếu. Nhưng con biết Thầy còn có một di chúc nữa. Di chúc này Thầy đã viết trong thơ.

  • “Các con dù sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng phải nhớ đi bằng đôi chân và nhìn bằng đôi mắt của chính mình. Khi Thầy đi rồi, có buồn thì buồn ít thôi.”