I. Tác giả bài ai điếu
Thượng Tọa Giác Nguyên, hiệu là Toại Khanh, vào chùa từ năm mới tám tuổi. Ông là một hành giả khá kín đáo, thoắt ẩn, thoắt hiện, sống đời ta bà vô trú, nhưng lại được rất nhiều người mộ đạo yêu kính. Thầy bổn sư, truyền Sa Di Giới cho ông là Hòa Thượng Tịnh Sự, thủ khoa A Tỳ Đàm (Abhidhamma).
Ông tu theo phái Phật Giáo Nguyên Thủy. Số lượng bài giảng kinh Tạng gần đây trên các trang mạng, có thể nói, là một trong những vị sư đứng đầu bảng, và ngày càng có nhiều người biết tiếng, tìm nghe.
Một điều đặc biệt hết sức thú vị, gia đình ông có bảy anh em trai, tất cả họ, đều trở thành nhà sư, đều thực tài và danh tiếng. Ông là người xuất sắc nhất trong bảy anh em xuất gia của mình và đời sống tu hành của ông, chủ yếu là chiêm nghiệm, cũng như học tập không ngừng.
Ông có lối giảng kinh say sưa, như lên đồng, lúc ấy, ông không còn chú ý hay màng gì đến chung quanh. Và chính đặc điểm đó, đã cuốn hút một lượng fan nghe ông giảng kinh, không nhỏ. Kinh Pháp vốn không dễ nghe, nhưng qua cách trình bày bình dị, dễ hiểu, cụ thể, người ta tìm đến ông ngày mỗi đông hơn.
Không chỉ thế, ông còn là nhà văn, nhà thơ, đồng thời là dịch giả của nhiều bộ sách quan trọng. Ông giỏi nhiều ngoại ngữ như: Anh, Pali, Hán, Thái, Nhật, Sanskrit, Tạng.
Với ý định đi sâu vào nghiên cứu thế giới tư tưởng của một số triết gia Đức, nên ông đang theo học ngôn ngữ này tại Đức.
Hiện nay, ông đang chú tâm vào dự án Thiền Viện Kalama tại Myanmar. Đây là một trung tâm tu thiền dành cho hành giả Việt Nam muốn sang Myanmar tu tập theo tiêu chí Phật Giáo Nguyên Thủy.
II. Ai điếu Hoà thượng Tuệ Sỹ

Nhìn di ảnh cảm thương trào lệ
Bởi nhớ câu thiên lý độc hành
Khi viếng tang ngài Tuệ Sỹ vào những ngày cuối tháng 11. 2023, sư Giác Nguyên, bất chợt nhớ, trong bài Một Thời Truyền Luật, ngài Tuệ Sỹ từng viết: Đời cần thì ta đến. Đời không cần thì ta đi. Có gì mà vui hay buồn trong đây?
Trong phút chốc, một nỗi cảm thương vô cùng ùa đến, không dừng được, sư viết lên lời ai điếu:
Ai điếu Hoà thượng Tuệ Sỹ
Một giọt sương rơi
Cho hiên chùa thêm quạnh
Một vầng trăng về tây
Cho biển tối thêm sâu
Một Tăng Triệu thời nay
Giũ áo qua cầu
Tiếng thạch sùng khuya
Gió lùa tàng kinh các
Cầm đèn tuệ chênh vênh
Sống một đời cao sĩ
Vóc hạc gầy mong manh
Hồn chứa hết tam thiên
Chí cao vợi
Cô đơn
Dặm trần không tri kỷ
Phiên chợ đời phũ phàng
Sao đắt đỏ chữ duyên
Trời nam lặng một bóng người
Vai gầy cõng đạo, một trời sở tri
Việc xong, quẳng gậy mà đi
Hổ Khê áo cỏ dặm về trăng soi…
III. Nội dung
1. Một Tăng Triệu thời nay
Một giọt sương rơi
Cho hiên chùa thêm quạnh
Một vầng trăng về tây
Cho biển tối thêm sâu
Một Tăng Triệu thời nay
Giũ áo qua cầu
Nếu viết liền nhau, ta sẽ có một đoạn văn mượn cảnh để thổ lộ tình, như thế này:
Lại một giọt sương rơi nữa. Lúc này trời đã vào khuya, sân chùa vốn đã quạnh quẽ, nay, quạnh quẽ ấy, dường như càng thêm nhiều phần hơn nữa.
Giọt sương rơi, chỉ là giọt sương rơi, hay viết giọt sương rơi, là muốn mượn hình ảnh ấy, để nói về sự ra đi vừa mới tức thì của cố đại lão hòa thượng Tuệ Sỹ? Và sân chùa quạnh quẽ kia, chính là muốn nói đến tâm hồn trống vắng, lặng lẽ của những người ở lại, đang rất tiếc thương, đang rất đỗi buồn, vì sự ra đi ấy?
Chỉ một giọt sương rơi thôi, cũng đã nghe xót xa lắm rồi, huống hồ gì là vầng trăng về tây. Một vầng trăng đã về tây cho biển tối thêm sâu.
Hay, hay theo kiểu cô đúc, gọn gàng. Thơ phái nam viết, khác với thơ người nữ viết, chính là chỗ này đây. Nam viết, chữ ít mà tình nhiều. Nữ viết, giống mẹ dạy con, giống cô giáo dạy học trò, sợ người đọc không hiểu, nên thường dàn trải, cố gắng dụng tâm giải thích.
Lúc nào cũng như sợ người khác không hiểu được mình, hoặc, không hiểu đúng mình, hoặc, không hiểu hết mình, thành thử, dài lê thê, không cần thiết.
Ví người như giọt sương, ví người như vầng trăng, giọt sương thì rơi, vầng trăng thì về, còn hình ảnh nào đẹp hơn, còn hình ảnh nào thơ hơn thế nữa.
Vầng trăng về tây khiến cho biển tối ngoài kia, càng thêm sâu hun hút. Chữ ra chữ. Nghĩa ra nghĩa. Nếu giờ đây, có ai hỏi tôi, thơ là gì, thì tôi sẽ trả lời lập tức, thơ là thế này đây, là rất biết cách mượn những hình ảnh thanh tú, thanh cao, thanh khiết, xứng đáng để thay thế cho một bậc cao tăng, có đời sống tu hành thiện lương và trong sạch rất mực như ngài Tuệ Sỹ; cũng như biết cách, mượn hình ảnh sân chùa quạnh quẽ, mượn hình ảnh biển vốn tối sâu, nay càng thêm hun hút, thay cho lòng người lặng lẽ, lòng người trống vắng, chông chênh, như bầy con lạc cha, lo âu ngày mai đây, khi dâu biển, biết phải tựa nương vào đâu.
**
Một Tăng Triệu thời nay, vừa giũ áo qua cầu. Tăng Triệu thời nay chính là ngài Tuệ Sỹ. Còn Tăng Triệu thời xưa ư? Ông là một bậc cao tăng, là vị luận sư tài giỏi nhứt của nước Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ V, và cũng là người đầu tiên của Phật Giáo nước này, nắm vững và trình bày đầy đủ, hoàn hảo giáo lý Tính Không của Long Thụ. Ông cũng là người viết Tựa cho bộ kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Trường A Hàm và Bách Luận.
Vì sao sư Giác Nguyên lại so sánh ngài Tuệ Sỹ là Tăng Triệu đời nay? Tôi đồ rằng, vì ngày xưa, lúc Tăng Triệu đọc Đạo Đức Kinh của Lão Tử, ông than, hay thì hay lắm, nhưng còn trụ nơi hư vô, chưa đến chỗ tột cùng. Cho đến khi, Tăng Triệu đọc được bộ kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, ông vui mừng nói, nay mới biết được chỗ về.
Như ngài Tuệ Sỹ, Tăng Triệu ngày nay, đã biết rõ chỗ về, nên mới thõng tay, giũ áo, qua cầu, là vậy!
2. Vóc hạc gầy mong manh
Tiếng thạch sùng khuya
Gió lùa tàng kinh các
Cầm đèn tuệ chênh vênh
Sống một đời cao sĩ
Vóc hạc gầy mong manh
Hồn chứa hết tam thiên
Chí cao vợi
Cô đơn
Dặm trần không tri kỷ
Phiên chợ đời phũ phàng
Sao đắt đỏ chữ duyên
Nếu ai thường đọc truyện Kim Dung, thì hẳn chẳng xa lạ gì với ba từ Tàng Kinh Các. Đó là thánh địa, nơi cất giấu, lưu giữ các tuyệt kỹ võ công hàng đầu trong giới võ lâm.
Trong triều đình, Tàng Kinh Các là nơi lưu trữ tài liệu, văn bản gốc, quý hiếm, quan trọng.
Trong nhà chùa, Tàng Kinh Các là thư viện, là nơi lưu trữ, sưu tập kinh sách cũng như các tư liệu liên quan.
Ngài Tuệ Sỹ ở đâu, thì Tàng Kinh Các ở đó, người sống nhờ Kinh, nhờ Pháp như vậy, nên sách như cơm ăn, nước uống, tối cần thiết. Muốn hiểu theo nghĩa đen như vậy cũng đặng, mà muốn hiểu theo nghĩa bóng, ngài chính là một Tàng Kinh Các của Phật Giáo, cũng chẳng gì là quá đáng, hay trái, hay sai, nghiêm trọng.
Tiếng thạch sùng kêu khuya, gió lùa xuyên tàng kinh các, tưởng như bóng người vừa mới thoắt qua, trên tay còn cầm chiếc đèn tuệ chênh vênh, sương rụng, trăng tan, đầy vơi tiếc nuối.
Sống một đời cao sĩ
Vóc hạc gầy mong manh
Hồn chứa hết tam thiên
Chí cao vợi
Ngài sống một đời, từ học thức cho đến đức hạnh, đều vượt bậc, hơn người, ngay dẫu khi, hoàn cảnh sống ấy, không chỉ khắc nghiệt, lao tâm khổ tứ, mà còn là mất tự do, tù túng, bị ngược đãi, bị cản trở đường tu, triền miên, năm này qua tháng nọ.
Trong vóc hạc gầy mong manh ấy, là chí cao vời vợi, là tâm hồn chứa hết cả Tam Thiên, muôn pháp.
Tam Thiên nghĩa là ba ngàn, ba ngàn Pháp Môn, ba ngàn Thế Gian, ba ngàn Chư Pháp.
Cô đơn
Dặm trần không tri kỷ
Phiên chợ đời phũ phàng
Sao đắt đỏ chữ duyên
Chữ dùng hay đến thế thì thôi. Chẳng phải chỉ cao tăng trên con đường Đạo Pháp, đã “cao” rồi, thì tất thảy đều cao, như thơ đây, chẳng hạn.
Cô đơn đây, theo tôi hiểu, không phải là loại cô đơn theo nghĩa buồn bã, thiếu vắng bạn hữu, không có huynh đệ, chẳng người tâm sự, đỡ đần, khi bấc cạn, tuổi đời hao.
Cô đơn đây, nghĩa là một mình, một mình ở tù, một mình trong xà lim, một mình trong cơn biển dâu khắc nghiệt, đầy cam go và thử thách bước đường tu.
Lúc thương hải tang điền, lúc tình đời bạc vôi, thì, ai người tri kỷ? Ai người hiểu mình? Ai chí cốt, chí thân? Mới hay, chợ đời kia lắm đỗi phũ phàng. Mới hay, chữ duyên, ngày một đắt đỏ, ngày một khó tìm ra, hiếm hoi, của quý.
3. Hồ Khệ áo cỏ dặm về trăng soi
Trời nam lặng một bóng người
Vai gầy cõng đạo, một trời sở tri
Việc xong, quẳng gậy mà đi
Hổ Khê áo cỏ dặm về trăng soi… .
Trời Nam này, muốn hiểu là bầu trời của miền Nam, hay là bầu trời của Việt Nam, thì cũng đều đúng cả.
Trời Nam hôm nay, đã lặng rồi, một bóng người; đã nằm xuống hẳn rồi, một bóng người; đã tắt tiếng, đã yên nghỉ, đã ngừng hơi thở, đã khuất biệt thật rồi, một bóng gầy, vai cõng đạo, và trong đầu, ăm ắp sở tri.
Sở tri là những quan điểm, những điều nhận ra, những điều thấy được, những hiểu biết, những khái niệm thu thập được, từ những học hỏi, đọc sách. Sở tri là kiến thức.
Việc đời việc đạo, đâu đó, xong xuôi rồi, như Tăng Triệu thời xưa, ngài quẳng gậy mà về thôi.
Đường về, ngài bận chiếc áo cỏ. Phải nói là từ “áo cỏ” mà sư Giác Nguyên dùng, đã làm tôi ngẩn ngơ rất lâu. Ngẩn ngơ vì hình ảnh “áo cỏ” đẹp quá, và gây xúc động nữa, khi tôi hình dung ra, phủ trên mộ đất là lớp cỏ, lớp áo che. Tôi vẫn thường thấy người ta viết: áo vũ, áo mỏng, áo sờn, áo bạc, chỉ đây là lần đầu tiên, tôi nghe từ “áo cỏ”. Giản dị đến không thể giản dị hơn mà vẫn gợi được lòng thương cảm xiết bao.
Áo cỏ nhưng lại “Hổ Khê”, nghĩa là ngài về trong tâm trạng vui vẻ, nhất là, đưa ngài trên dặm đường xa ngái đó, lại có cả ánh trăng soi.
Tại sao nói “Hổ Khê” là sự vui vẻ. Nói một cách đầy đủ hơn, đây chính là tích Hổ Khê Tam Tiếu.
Đại sư Huệ Viễn ở chùa Đông Lâm, hơn ba mươi năm, chân không bước ra khỏi núi. Ngài khước từ mọi sự liên lạc không cần thiết với đời. Khách đến viếng, lúc họ ra về, đại sư chỉ tiễn chân tới cầu suối Hổ Khê, trước chùa, rồi quay trở vào.
Lần nọ, có Nho sĩ Đào Uyên Minh và Đạo gia Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Vì cơ luận khế hợp, khi tiễn khách về, bất giác, đại sư bước ra khỏi cầu suối hồi nào không hay. Vừa lúc ấy, ánh tịch dương chợt rọi đến, in bóng người bên vách núi. Cả ba như bừng tỉnh, đứng lại nhìn nhau cả cười sảng khoái, rồi mới chia tay, tạm biệt.
Sự tích này, về sau, trở thành một đề tài hội họa nổi tiếng, tượng trưng cho tư tưởng Tam Giáo dung hòa.
Truyền thuyết Hổ Khê Tam Tiếu bắt đầu từ đời Đường. Đến đời Tống, Lý Long Miên là người đầu tiên vẽ tranh Tam Tiếu. Từ đó, Hổ Khê Tam Tiếu trở thành giai thoại kỳ thú với nhiều người.
IV. Cảm nghĩ
Một bài thơ hay, là một bài thơ, chữ dụng không nhiều nhưng lại nói lên được rất nhiều điều, nói lên được rất nhiều điều nhưng cuối cùng, chỉ cần quy tụ lại, đọng lại trong lòng tha nhân, trong tâm hồn người đọc thơ, một hình ảnh lung linh nhứt, đẹp đẽ nhứt, tinh túy nhứt, nhiều ý nghĩa nhứt, gây xúc động nhứt, ví dụ như trong bài Ai Điếu này, là câu cuối cùng:
Hổ Khê áo cỏ dặm về trăng soi…
Suốt tám mươi năm ròng, ngài Tuệ Sỹ đã sống một cuộc đời dâng hiến mình cho Đạo Pháp, thật trọn vẹn. Cả trong giới Đạo, lẫn ngoài giới, đều cung kính và cảm phục ngài. Khi ngài về với Phật, hàng ngàn tâm tình đưa tiễn đã lần lượt gởi đến ngài bằng nhiều hình thức, và lời Ai Điếu này của sư Giác Nguyên, là một trong những lời tiễn đưa, mà tôi cho rằng, không chỉ chữ nghĩa đẹp mà hồn vía bài thơ còn đủ sức lay động được tâm can biết bao người, hôm nay, và cả mai sau.
Hổ Khê áo cỏ dặm về trăng soi…
Sài Gòn 11.11.2024


















